
Truyện ngắn dự thi mã số 120 của tác giả: Vũ Hoàng Lâm- Hải Phòng
MỘT CÂU ĐỐI, MỘT BÀI THƠ, MỘT NHÂN CÁCH
Một ngày cuối năm, chuẩn bị đón mùa xuân mới 2009, chúng tôi lên thăm ông Đoàn Duy Thành- nguyên Phó Thủ tướng, nguyên Bí thư Thành uỷ Hải Phòng. Ông Đoàn Duy Thành quê ở Hải Dương, song Hải Phòng như là quê hương thứ hai của ông.
Năm 1950, ông Đoàn Duy Thành là Bí thư Quận uỷ Ngô Quyền. Tháng 9 năm 1951 ông bị địch bắt, rồi đày ra Côn Đảo. Trong thời gian này ông được cử vào Đảo uỷ, chiến đấu kiên cường với kẻ thù, bị tra tấn đến thủng một bên phổi, nước cứ rò rỉ qua một cái lỗ bên sườn trái. Kẻ thù đã định thủ tiêu ông, quăng ông vào nhà xác. Một chiến sĩ cách mạng, ông Trần Huy Bích- y tá của tù nhân đã tố cáo tội ác của tên quan ba- bác sĩ Le Proux nên chúng phải đưa ông trở về trại để các tù nhân chăm sóc. Sau khi được trả tự do, ông được bố trí trở lại Hải Phòng. Sau ngày giải phóng 1955, làm Chủ nhiệm Công ty Bông vải sợi rồi Chủ nhiệm Liên hiệp hợp tác xã thủ công. ở cương vị nào ông cũng đưa đơn vị trở thành đơn vị xuất sắc. Đến năm 1979 ông trở thành Chủ tịch UBND thành phố, năm 1982 làm Bí thư Thành uỷ Hải Phòng. Trong thời gian này ông đã có công trong việc đắp đập Đình Vũ và đắp đê đường 14, lấn ra biển một diện tích ngang với huyện Tiên Lãng. Riêng việc đắp đê đường 14 đã thành lập thêm được hai xã. Nhân dân ghi nhớ công lao của ông nên đã đặt tên xã mới là Hải Thành và Tân Thành. Năm 1986 ông Đoàn Duy Thành được điều lên Trung ương giữ các trọng trách Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại thương. Dù vậy người Hải Phòng luôn nhắc tới ông, coi ông như một người thân yêu của Hải Phòng. Và chúng tôi những người Hải Phòng lên thăm ông cũng đã được ông đón tiếp như người thân trong gia đình.
Ông dẫn chúng tôi vào phòng khách, gian phòng tuy hẹp nhưng vẫn giữ cách bài trí của một gia đình nho giáo xưa. Một tủ chè kê ngang sập gụ. Bàn ghế phòng khách đóng bằng gỗ chắc chắn, bên cạnh là cái kệ đặt sách báo người ta vừa biếu ông, trong đó có cuốn: “Việt Nam, Tổ quốc tôi” đăng bài ký được giải viết về ông: “Một người ham làm giàu”. Phía trên tủ chè là câu đối viết bằng chữ Hán theo kiểu thư pháp và hai bên viết bằng chữ Quốc ngữ.
Tự coi mình như người nhà, tôi bước lại phía sập gụ đọc đôi câu đối. Thật bất ngờ! Đó là đôi câu đối của Giáo sư Vũ Khiêu- Anh hùng lao động, một nhà văn hoá lớn tặng ông:
Ngàn dặm xông pha gió bụi khôn mờ gương chính khí
Trăm vòng thử thách đất trời soi tỏ tấm trung can.
Câu đối viết năm 2004. Đó là một năm đáng ghi nhớ, ông Đoàn Duy Thành vừa tròn 75 tuổi.
Khoảng 10 năm, kể từ năm 1984, một số đảng viên hoạt động cùng thời với ông Đoàn Duy Thành viết đơn kiện ông về nhiều vụ việc, trong đó nặng nề nhất là phẩm chất đảng viên của ông khi đối mặt với quân thù trong thời bị cầm tù ở Côn Đảo, nói nôm na là các đồng chí đó ngờ rằng ông đã đầu hàng kẻ thù. Đó là một chuyện buồn lòng đối với ông. Bộ Chính trị đã tốn bao công sức để xác minh từ Đảng bộ Ngô Quyền, rồi xác minh qua các chiến sĩ tù Côn Đảo với ông Đoàn Duy Thành. Cho tới năm 1993, căn cứ trên các báo cáo, các biên bản, các kết luận, Bộ Chính trị đã ra quyết định khẳng định phẩm chất kiên cường bất khuất trước kẻ thù của đồng chí Đoàn Duy Thành, đồng thời cũng quyết định chấm dứt không xét bất cứ lá đơn nào kiện đồng chí Đoàn Duy Thành nữa.
Đón mừng tin vui đó, Giáo sư Vũ Khiêu đã khẳng định:
Gió bụi khôn mờ gương chính khí
Đất trời soi tỏ tấm trung can
Đúng là không còn lời đánh giá nào chuẩn xác và súc tích hơn.
Và chúng ta có thể hình dung nhân cách của ông ở vào tầm cỡ nào, thật xứng đáng tầm cỡ của một người quân tử.
Trên bức tường đối diện chúng tôi thấy có bài thơ chữ Hán viết theo dạng phóng khoáng đã chép lại mang về Hải Phòng nhờ thầy Nhâm Thế Vinh dạy tiếng Trung viết sang dạng phổ thông: Dịch âm:
Song điểu tề phi
Hoàng Oanh phi đáo Bắc Kinh đô
Hội ngộ Kim Bằng diệc lạc hồ
Đại sự vị thành hành tiểu sự
Song điểu tề phi chí thiện đồ
Trong Thập niên 80 của thế kỷ XX mối quan hệ Việt Nam- Trung Quốc như bầu trời phủ một đám mây mờ. Đến đầu thập niên 90, cả hai Đảng và Nhà nước đều mong muốn cải thiện mối quan hệ ấy, tiến tới bình thường hoá mối quan hệ giữa hai nước láng giềng.
Tháng 2 năm 1991, đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Việt Nam sang Trung Quốc bày tỏ thiện chí việc lập lại mối quan hệ giữa hai nước và nghiên cứu kinh tế của Trung Quốc. Các đồng chí Vũ Oanh- Bí thư Trung ương Đảng làm trưởng đoàn, Đoàn Duy Thành- Uỷ viên Trung ương Đảng, Viện trưởng Viện quản lý kinh tế trung ương làm Phó trưởng đoàn và một số thành viên khác. Nhìn vào cơ cấu đó, người ta thấy rõ thiện chí của Việt Nam.
Là một người nho học, ông Đoàn Duy Thành có sự hiểu biết khá sâu sắc về văn học cổ Trung Hoa. Trong cương vị một Bộ trưởng, ông có những chính kiến đúng mực, thiện chí trong các mối quan hệ với Trung Quốc.
Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng tiếp đồng chí Vũ Oanh và đoàn đại biểu Việt Nam. Trong buổi tiếp, Thủ tướng Lý Bằng nói một câu quan trọng: “Việc bình thường hoá quan hệ ngoại giao giữa hai nước cần có thời gian chuẩn bị. Trong khi chờ đợi việc lớn, chúng ta hãy làm những việc nhỏ…”.
Trong tâm hồn của chính khách Đoàn Duy Thành bỗng bật lên một tứ thơ. Và ngay trong buổi họp, ông đã viết một mạch bài thơ này. Ông dùng ngay tên của hai vị trưởng đoàn gắn với hai loài chim. Chim Hoàng Anh vốn được coi là một loài chim đẹp, có giọng hót quý phái, sang trọng biểu tượng của cái đẹp vĩnh hằng và chim Bằng, một loài chim biển bay rất cao và rất xa, biểu tượng của sức mạnh kiêu hùng để bày tỏ cảm xúc của mình. Trên cơ sở đó ông lập tứ “Song điểu tề phi”.
Câu thứ nhất mô tả việc: Chim Hoàng Oanh bay tới Thủ đô Bắc Kinh; ở câu thứ hai, tác giả dùng ba chữ “diệc lạc hồ”. Để hiểu ẩn ý của ba chữ này, ta cần nhớ đến một câu của Khổng Tử trong sách Luận ngữ:
“Hữu bằng tự viễn phương lai bất diệc lạc hồ”.
(Nghĩa là: Có bạn từ phương xa đến chơi, chẳng lấy làm vui lắm thay!).
Tuy tác giả chỉ trích “diệc lạc hồ” song câu thơ hàm ý: Gặp gỡ Kim Bằng, thật là một điều vui (không ngăn cản được).
Câu thơ thứ ba: Việc lớn chưa thành, hãy cùng nhau làm việc nhỏ: ý tưởng này mang vẻ đẹp của triết học phương Tây: Đừng thấy việc chỉ mang lợi ích nhỏ mà không làm.
Câu thứ tư đã khôn ngoan nhắc lại ý tưởng cao đẹp của Tăng Tử nói lên mục đích của cuộc hội ngộ giữa Thủ tướng Lý Bằng với đoàn Việt Nam. Hai con chim cùng bay tới một điểm, cùng mong muốn làm điều thiện (dẫn lời Tăng Tử trong sách Đại học: “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện”).
Với bài thơ này, Phó trưởng đoàn Đoàn Duy Thành đã vượt qua nghi thức ngoại giao để đàm đạo với Thủ tướng Lý Bằng như một nhà thơ nói chuyện với một chính khách. Nói chung, trong cuộc gặp gỡ giữa các đoàn đại biểu, chỉ có hai trưởng đoàn phát biểu, các đoàn viên lắng nghe, ghi chép rồi thảo luận để hiểu ý của phía bên kia.
Ở đây ông Đoàn Duy Thành đã ứng tác một bài thơ và bài thơ ứng tác đó đã mang lại cho cả hai bên những tình cảm đẹp về một tình bằng hữu. Chắc rằng khi đọc bài thơ này, Thủ tướng Lý Bằng và đồng chí Vũ Oanh cũng thấy không khí cuộc đàm phán trở nên thân thiện hơn.
Trong lịch sử ngoại giao giữa nước ta và Trung Quốc, người ta thường nghĩ nước ta thuộc “chiếu dưới”, bởi thế các sứ thần Việt Nam đi sứ sang Trung Quốc luôn bày tỏ thiện chí của mình, nhưng đồng thời trong giao tiếp, các sứ thần luôn giữ tinh thần độc lập, tự chủ, luôn giữ được thể diện của một quốc gia có chủ quyền. Nhiều bài thơ, nhiều câu đối của các sứ thần Việt Nam đã khiến các Hoàng đế Trung Hoa phải tâm phục khẩu phục.
Bài thơ “Song điểu tề phi” của Phó trưởng đoàn Đoàn Duy Thành xứng đáng được đặt vào hàng các bài thơ đi sứ “tâm phục khẩu phục” như thế.
Một câu đối thể hiện lòng quý trọng người tri kỷ của giáo sư Vũ Khiêu.
Một bài thơ ứng tác đầy bản lĩnh đã cho ta tiếp cận một nhân cách khả kính- nhân cách Đoàn Duy Thành.
VHL
…
Hộp thư Thơ Văn với chủ đề “Người Hải Phòng” dự thi:
Thời gian qua, BTC đã nhận được Thơ Văn dự thi của các tác giả:
Hải Phòng: Phan Dũng, Lại Xuân Hậu, Nguyễn Ban, Vũ Hoàng Lâm, Bùi Sỹ Căn, Nguyễn Hùng, Vũ Ngọc Anh, Đặng Quang Đạo, Nga Lê, Trần Duy Hạnh, Đào Nguyên Lịch, Bùi Đức Nội, Nguyễn Thị Hiền, Thúy Vinh, Quỳnh Lê, Nguyễn Thị Nho, Lê Việt Hùng, Ngô Thị Mai Hà, Vương Giao Tuyến, Hoàng Ngãi, Bùi Thế Đạt, Đoàn Khương, Lê Trung Cường, Hoàng Văn Quyền, Nguyễn Quang Hòa, Trần Vĩnh Hải, Nguyễn Mạnh Trí, Nguyễn Sơn, Nguyễn Minh Dương, Mai Hồng Quang, Phan Giang Sơn, Đào Nguyên Lịch, Nguyễn Đình Tâm, Nguyễn Xuân Căn, Nguyễn Viết Minh, Phạm Văn Quá, Bùi Xuân Tuấn, Ngân Lê, Hồng Giang, Bùi Hoàng Nam, Phạm Hoàng Oanh, Lương Trường Giang; Hà Nội: Bùi Đức Thiêm, Nguyễn Lan Hương, Nguyễn Thị Kim, Lê Nguyên Khôi, Thái Hưng, Đinh Thành Trung, Đỗ Xuân, Trần Thị Bích; Hưng Yên: Nguyễn Thành Tuấn, Nguyễn Quý Nghi; Quảng Ninh: Dương Phượng Toại, Nguyễn Thái Phú, Đỗ Đồng Lệ; TP Hồ Chí Minh: Vương Miện, Nguyễn Vĩnh Bảo, Vũ Lam Hiền, Nguyễn Thế Kỹ; Thụy Sỹ: Hoàng Yến; Nam Định: Phạm Mai Hương; Hải Dương: Huy Nguyên; Chi hội Mỹ: Phạm Thu Hương, Trần Thanh Toàn; Cộng hòa Pháp: Nguyễn Nga; Nghệ An: Phan Hữu Cường; Liên bang Nga: Nguyễn Hắc Long, Phạm Đình Cựu; Khánh Hòa: Ngọc Hoa, Lê Đức Bảo; Bà Rịa Vũng Tàu: Trần Thắng; Bungary: Hoàng Minh Thuận; Bình Thuận: Dương Đức; Vương quốc Anh: Đào Thị Kỷ, Nguyễn Thị Mát; Newzealand: Đào Yên; Vĩnh Phúc: Lê Gia Hoài; Đồng Nai: Nguyễn Quốc Toàn, Nguyễn Tâm Thanh; Yên Bái: Đào Thu Hương; Lâm Đồng: Nguyễn Duy Vinh; Bắc Giang: Nguyễn Chí Diễn, Đoàn Văn My; Long An: Thi Hoàng Khiêm; Ănggola: Lương Hải Thuận; Đà Nẵng: Trần Quang Sắc
Mời các bạn tiếp tục gửi Thơ Văn dự thi. Thơ Văn dự thi xin gửi về email: hoivietkieuhp@gmail.com. Trân trọng cám ơn!
BTC