Lịch sử văn hóa và dân tộc Việt Nam- Bùi Đức Nội

alt

Nước Việt Nam nối liền hai đại dương: Thái Bình Dương – Ấn Độ Dương, giữa hai nền văn hóa cổ đại của loài người.

alt

Việt Nam có trên 90 triệu dân, có 54 dân tộc anh em, sống trên dải đất hình chữ S từ Mục Nam Quan đến Mũi Cà Mau, đều gắn bó trong vận mệnh chung của đất nước, trong lịch sử dựng nước giữ nước lâu đời.

Những dân tộc khác nhau, lịch sử phát triển tiếng nói, nét văn hóa khác nhau, nhưng đều tự nguyện kết lại trong một cộng đồng quốc gia, một cộng đồng dân tộc, cùng chung lưng đấu cật xây dựng và bảo vệ Tổ quốc giang sơn của mình.

Trong số trên 90 triệu người Việt Nam, có hơn 4 triệu người đang sinh sống trên 100 nước và vùng lãnh thổ, được nhân dân ta quen gọi là Việt Kiều, trong số đó có hơn 400 nghìn người là trí thức, hơn 80% ở các nước công nghiệp phát triển, bà con ngày càng ổn định cuộc sống và hòa nhập vào xã hội nơi cư trú, có vị trí nhất định trong đời sống kinh tế – chính trị – xã hội ở nước sở tại.

Người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời và là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường hợp tác hữu nghị giữa nước ta với các nước.

Việt Kiều đã hưởng về quê hương, góp phần tích cực vào công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Bà con đã tham gia nhiều dự án đầu tư, chuyển giao công nghệ các hoạt động xã hội nhân đạo từ thiện, giúp đỡ đồng bào bị bão lụt, các hoạt động xóa đói giảm nghèo..v..v… gửi kiều hối về nước.

Từ thời Hùng Vương dựng nước dân tộc Việt Nam đã trải qua các cuộc đấu tranh với thiên nhiên, đấu tranh xã hội để xây dựng đất nước. Vượt qua hàng chục vạn năm, từ những chiếc rìu nthoo sơ bằng đá đến những chiếc bình gốm duyên dáng. Trong khoảng thời gian dài dằng dặc đó, con người Việt Nam trải qua những cuộc đấu tranh khó khăn gian khổ để tồn tại và phát triển cuộc sống. Bằng lao động sáng tạo, tổ tiên người Việt đã từng bước tiến lên trên con đường cải tạo thiên nhiên, cải tạo mình. Họ đã biết làm nông nghiệp cách đây hơn 10 ngàn năm, biết mài đá làm công cụ cách đây hơn 10 ngàn năm và biết luyện đúc hợp kim đồng thay cách đây 4 ngàn năm.

Cuộc sống đầy kỳ tích đó của tổ tiên người Việt đã tạo nên những tiền đề điều kiện cho sự tồn tại một thời đại Hùng Vương rực rỡ trong lịch sử Tổ quốc. Từ những kỳ tích đó con người trên đất Việt Nam dần dần vượt ra khỏi xã hội nguyên thủy, đạt tới kỷ nguyên văn minh trong lịch sử dân tộc.

Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử chống ngoại xâm triền miên và chiến thắng ngoại xâm oanh liệt, luôn ở tư thế vừa dựng nước vừa giữ nước.

Từ cuộc kháng chiến chống quân Tần đến cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, dân tộc Việt Nam đã trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và đã chiến thắng oanh liệt trong suốt hàng ngàn năm dựng nước giữ nước.

Những nước đến xâm lược Việt nam đều có tiềm lực kinh tế lớn mạnh, có lực lượng và kỹ thuật quân sự hùng hậu lớn hơn Việt Nam rất nhiều lần.

Từ thời cổ đại đế quốc Nguyên Mông đã làm mưa làm gió từ Á sang Âu; phát xít, đế quốc Nhật – Pháp – Mỹ thời hiện đại.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc Việt Nam là cuộc kháng chiến khốc liệt nhất chưa từng có trong lịch sử Việt Nam và của cả loài người.

Thiên anh hùng ca chống ngoại xâm trong suốt hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam đã chứng minh hùng hồn sức sống kỳ diệu của dân tộc Việt Nam.

Dân tộc Việt Nam không chỉ kiên cường bất khuất trong sự nghiệp giữ nước, mà còn là một dân tộc có nền văn hóa lâu đời suốt mấy ngàn năm lịch sử.

Người Việt Nam sống và lao động trên mảnh đất này bền bỉ, dẻo dai, năng động, sáng tạo, đồng thời vừa sản xuất vừa chiến đấu thắng lợi.

Người Việt Nam sáng tạo trong nghề lúa nước, trồng trọt hoa mầu, cây ăn trái, rất tinh xảo nghề thủ công cổ truyền như đan, thêu, dệt, chạm khắc, chế tác kim loại và đồ gốm v.v… biết học hỏi cái hay của nước ngoài, bổ sung và phát huy bản sắc của dân tộc mình. Có tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám vươn lên tới tầm cao trí thức của thời đại.

Dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu nước, ý chí độc lập tự cường, đây chính là phẩm giá cao đẹp của người Việt Nam.

Tuyền thuyết “Sơn Tinh – Thủy Tinh” và “Phù Đổng Thiên Vương” đã nói lên tính chất bất khuất của dân tộc Việt Nam. Tinh thần yêu nước thể hiện rõ từ thời Bà Trưng, Bà Triệu… Thời Đinh, Lê, Lý, Trần v.v…

Trải mấy ngàn năm lịch sử đã ăn sâu vào máu thịt của người Việt Nam, trở thành lẽ sống cao đẹp, quyết không chịu làm nô lệ, không có gì quý hơn độc lập tự do.

Dân tộc Việt Nam từ truyền thống yêu nước đến truyền thống đoàn kết thống nhất trải qua nhiều thế kỷ đấu tranh gian khổ, các dân tộc Việt Nam phải đoàn kết lại, phải đùm bọc lẫn nhau “Nhiều điều phủ lấy giá gương”… phải thực sự yêu thương nhau “Thương người như thể thương thân”… giúp nhau trong hoạn nạn, nhường cơm sẻ áo “Lá lành đùm lá rách”.

Tình thương yêu nhau xuất phát từ trong gia đình họ hàng, làng xóm rộng ra đất nước.

Đất nước Việt Nam không của riêng Vua Chúa Việt Nam mà là của tất cả các dân tộc sống trong cộng đồng, trong một quốc gia thống nhất, vì vậy nhân dân Việt Nam chính là chủ thể cao nhất có quyền định đoạt vận mệnh Tổ quốc Việt Nam.

Trải mấy ngàn lịch sử, độc lập Thống nhất đã trở thành lẽ sống thiêng liêng nhất của dân tộc Việt Nam.

“Nước Việt Nam là một

Dân tộc Việt Nam là một

Sông có thể cạn

Núi có thể mòn

Song chân lý đó không bao giờ đổi”

Lời Chủ tịch Hồ Chí Minh

Cách đây mấy ngàn năm, từ thời đầu dựng nước, dân tộc Việt Nam đã xây dựng tinh thần phong phú, một cơ sở đạo lý làm người, nền đạo lý bắt nguồn từ ý thức cộng đồng, biết đoàn kết nhau lại thành sức mạnh. Những cuộc đấu tranh đầy gian khổ làm cho mỗi người thêm thấm thía, giá trị của lao động mồ hồi, xương máu, càng thiết tha với mảnh đất quê hương mình. Tinh thần ấy cắm rễ đâm chồi trong tình cảm của mỗi người Việt Nam. Biết ơn tổ tiên không bao giờ bội nghĩa vong ơn, không bao giờ lìa xa cội nguồn.

Những thế kỷ xa xưa, kẻ thù xâm lược Việt Nam đã mưu toan đồng hóa người Việt Nam. Tổ tiên người Việt Nam với bản lĩnh và sức mạnh, đạo lý, lý tưởng làm người đã chống trả quyết liệt, không phải chỉ có bàn tay trắng mà còn có cả sức mạnh to lớn của một nền văn hóa đạo lý truyền thống được phát huy từ mấy ngàn năm lịch sử.

Nền đạo lý trong sáng mấy ngàn năm lịch sử đã gắn chặt tình cảm cuộc sống của mỗi người dân Việt Nam đã đúc nên lý tưởng cao đẹp “không có gì quí hơn độc lập tự do” của người Việt Nam thế kỷ 20.

Ngày nay thế kỷ 21 lớp lớp những con người Việt Nam ở trong nước hay ở ngoài nước, nhất là các thế hệ thanh thiếu niên Việt Nam mãi mãi noi gương tổ tiên và phát huy cao độ truyền thống yêu nước, ý chí quật cường, đạo lý trong sáng vươn tới lý tưởng làm người trong thời đại văn minh trên cơ sở mục tiêu chung là giữ vững độc lập thống nhất chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia vì mục tiêu “dân giầu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng văn minh”

Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc để trở thành động lực chủ yếu để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Quyết làm nên những kỳ tích anh hùng bất khuất, vinh quang như các thế hệ người Việt Nam trong các thế kỷ trước.

BĐN

Bài viết khác