Trong lịch sử nước ta có nhiều nhân vật nổi tiếng mà công trạng bị lãng quên hay đánh giá không đúng mức do nhận thức và quan điểm giai cấp từng thời kỳ. Phạm Đình Trọng là người nằm trong số đó. Sự đổi mới đã làm cho cách nhìn nhận khách quan hơn nên nhiều nhân vật lịch sử dần được đánh giá công bằng hơn.
Ngày 24-1-2010, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Viện Sử học Việt Nam, Hội Khoa học lịch sử Hải Phòng đã phối hợp tổ chức “Hội thảo khoa học về thân thế và sự nghiệp của tiến sĩ Phạm Đình Trọng”. Các tham luận trong hội thảo của nhiều giáo sư, tiến sĩ đầu ngành lịch sử Việt Nam đã phân tích, đánh giá công minh về những đóng góp của Phạm Đình Trọng, khôi phục và tôn vinh tên tuổi vị danh tướng.
Phạm Đình Trọng sinh năm Giáp Ngọ ngày 22-2-1714, quê ở làng Khinh Dao, huyện Giáp Sơn, trấn Hải Dương trước đây, nay thuộc thôn Khinh Dao (Khinh Giao, Kinh Dao), xã An Hưng, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng.
Phạm Đình Trọng sinh ra trong một gia tộc nổi tiếng nho học và thành danh nên đã kế thừa, phát huy truyền thống gia đình. Ông vốn dòng dõi danh sĩ Phạm Sư Mạnh đời Trần, Phạm Gia Mô đời Hậu Lê, cao tổ là Phạm Chất Lượng làm đến chức Tả thị lang bộ Hộ, tước Hồng Nguyên hầu, tằng tổ là Phạm Huy Ánh làm đến chức Đô ngự sử hàm Thái tử Thiếu bảo, tước Yến Dực hầu; cha là Phạm Doãn Địch, Giám sinh Quốc tử giám làm đến chức Tri phủ phủ Thiệu Phong. Gia phả dòng họ Phạm ở Khinh Dao cho biết, Phạm Đình Trọng có 4 phu nhân: Chính thất họ Lưu hiệu là Trinh Tĩnh; thứ thất họ Đặng hiệu là Từ Dũ; thứ thất họ Lưu, hiệu là Từ Hoa; thứ thất họ Nguyễn, hiệu là Diệu Tín.
Tướng mạo khôi ngô, tư chất thông minh, lại được học sớm, từ bảy tuổi gia đình đã cho theo các thày nổi tiếng trong vùng, học võ, học văn nênÂÂÂÂ 20 tuổi, ông thi đỗ Hương Cống. Khoa thi năm Bính Thìn niên hiệu Vĩnh Hựu (1739) ông đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ. Một năm sau, năm Cảnh Hưng thứ nhất (1740) ông được triều đình bổ nhiệm làm Hiệu thảo viện Hàn lâm. Phạm Đình Trọng là người văn võ song toàn đã nhiều lần tham gia hay chỉ huy các cuộc dẹp loạn khởi nghĩa nông dân.
Với những người chống lại triều đình Lê – Trịnh ông là kẻ đối địch, đàn áp khởi nghĩa nông dân nhưng với vua Lê, chúa Trịnh ông là công thần bậc nhất. Tuy vậy sử sách vẫn phải thừa nhận ông là một người văn võ toàn tài, một bậc quân tử, sống cương trực và thẳng thắn đúng với bản tính người xứ Đông. Sử gia phong kiến Phan Huy Chú bình phẩm về con người ông bằng những lời khen ngợi: “Ông sinh ra đã có vẻ khôi ngôi. Năm lên 8 tuổi học vỡ lòng, đã hiểu được luật thơ. Khi lớn, văn chương hùng hồn…Ông tài kiêm văn võ, làm bậc nguyên thần của nước, là danh tướng làng nho, công lao sự nghiệp kỳ vĩ, gần đây chưa thấy có”.
Trong nửa đầu thế kỷ 18, trước cảnh triều Lê suy vong, mục nát để họ Trịnh lấn át, nhiều cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình đã nổ ra ở Đàng ngoài. Cuộc khởi nghĩa có quy mô và tạo được thanh thế nhất là cuộc khởi nghĩa của anh em Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển ở Hải Dương. Quan quân triều đình đi đánh dẹp nhiều lần, nhưng đều thất bại. Biết Phạm Đình Trọng là người mưu lược, văn võ song toàn, triều đình phong ông giữ chức Hiệp thống kiêm Phòng ngự sử và phái đi đánh dẹp quân khởi nghĩa. Với tài năng quân sự, không bao lâu, Phạm Đình Trọng bắt được Nguyễn Cừ. Ông được phong làm Hữu thị lang Bộ Công.
Nguyễn Tuyển mất, Nguyễn Hữu Cầu, con rể Nguyễn Tuyển, mang quân về mạn Đông Bắc, lấy vùng Vân Đồn, Cát Bà, Đồ Sơn… làm căn cứ, xưng là Đông Đạo thống quốc bảo dân Đại tương quân. Nguyễn Hữu Cầu là người nhanh nhẹn, quyền biến, có sức khỏe hơn người (dân gian ví ông như Hạng Võ của nước Nam). Có tài thao lược, Nguyễn Hữu Cầu đánh đâu thắng đó, uy thế lẫy lừng. Năm 1743 ông đánh bại quân Triều đình, giết chết Thủy đạo đốc binh Trịnh Bảng ở sông Cổ Trai ( Kiến Thụy bây giờ). Tiếp đó Nguyễn Hữu Cầu đánh lên Kinh Bắc. Trấn thủ và Đốc binh Kinh Bắc bấn loạn, bỏ cả ấn tin thoát thân. Nghĩa quân tiếp tục đánh tới Bắc Giang. Quân triều đình do Trương Khuông và Đinh Văn Giai phái tới thua to, chạy toán loạn… Trước thế lực của Nguyễn Hữu Cầu, chúa Trịnh lo sợ, liền phong Phạm Đình Trọng làm thống lĩnh Bình khẩu Đại tướng quân, chỉ huy quân Triều đình đi dẹp Nguyễn Hữu Cầu. Phạm Đình Trọng thật xứng là đối thủ của Nguyễn Hữu Cầu. Qua 6 năm chinh chiến cam go, cuối cùng cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Cầu bị Phạm Đình Trọng dẹp tan. Sau chiến thắng này, Phạm Đình Trọng, lúc ấy mới 36 tuổi được thăng Thượng thư bộ Binh (tương tự chức Bộ trưởng bộ Quốc phòng ngày nay), hàm Thái bảo, tước Hải quận công, Dương võ Tuyên lực công thần, hưởng hoa lợi 12 xã và 150 mẫu lộc điền.
Những năm bọn phí quấy nhiễu vùng Đông Bắc, giáp giới giữa ta và Trung Quốc, trấn thủ xứ Quảng Yên của ta và quan quân Quảng Đông bên Tầu cũng bó tay, dẹp không nổi. Trước tình cảnh ấy, triều đình lại phái Phạm Đình Trọng đảm nhận tuần tiễu khu vực này. Không lâu sau, dưới sự chỉ huy của ông, đám phỉ bị xóa sổ, những tên cầm đầu bị bắt. Không chỉ dân Đông Bắc nước Nam được bình yên mà dân Quảng Đông của Tầu cũng không còn bị quấy nhiễu. Vua Minh mừng rỡ, liền sai người mang lụa, vàng bạc và mũ áo Thượng thư sang nước Nam ban cho Phạm Đình Trọng. Bởi vậy đời sau gọi ông là Lưỡng quốc Thượng thư.
Năm Tân Mùi (1751) Phạm Đình Trọng được phái đi trấn thủ Nghệ An, kiêm Đốc binh châu Bố Chính. Ông vừa trấn áp bọn đạo tặc trộm cướp, và tàn dư của Nguyễn Hữu Cầu, vừa thi hành chính sách đức trị, coi dân là gốc, thương quý dân như con nên vùng Nghệ An, Bố Chính dân an cư, lạc nghiệp, đời sống ấm no, an ninh, trật tự được giữ vững. Phạm Đình Trọng được nhân dân trong vùng kính trọng, quý mến.
Nhưng điều đó lại đẩy ông vào thảm họa. Do ghen ghét tài năng , đức độ của Phạm Đình Trọng và không thích những lời nói thẳng nói thật của ông, những kẻ bất tài, tiểu nhân, ghen ghét ông (đứng đầu là Đỗ Thế Giai) đã đem lời ghèm pha với chúa. Bọn này tâu với Trịnh Doanh rằng Phạm Đình Trọng gây thanh thế, uy đức lấn cả triều đình, âm mưu thoán nghịch. Chúa Trịnh mù quáng, lúc nào cũng nơm nớp lo mất quyền lực, mất quyền lợi liền ban rượu độc buộc ông phải tự tử. Trước đó nhiều bộ tướng từng khuyên ông chạy vào Nam với chúa Nguyễn, nhưng Phạm Đình Trọng không nghe, ông cả cười mà rằng, người quân tử không thờ hai Chúa. Sau đó ông vào thư phòng, quay mặt về phía Bắc, vái vọng vua Lê rồi uống rượu độc tự tử. Phạm Đình Trọng mất vào đêm trừ tịch năm Giáp Ngọ (1754) lúc mới 40 tuổi.
Âu đó cũng là bi kịch chung của những người tài thời xưa khi “thỏ hết thì chó săn bị giết”!
Ông mất, triều đình hối lỗi, vua Lê liền ban gấm vóc, tiền bạc và cho thuyền đưa linh cữu ông về quê, đồng thời cử nhiều quan, trong đó có quan thượng Nguyễn Nghiêm về Khinh Dao chọn đất an táng. Vua Lê ân hận viết mấy chữ viếng: “Dẹp loạn yên dân, giữ vững biên cảnh, yêu nước trung vua, danh tiết vẹn toàn”. Chúa Trịnh thì gửi ban câu đối: “Cái thế anh hùng kim cổ hiếm / Tài đức bền lâu cùng đất trời”. Người dân Quảng Bình, Nghệ An và làng Khinh Dao quê ông đều có đền, miếu thờ Phạm Đình Trọng tồn tại cho tới ngày nay.
Ở thôn Khinh Dao, xã An Hưng, huyện An Dương, Hải Phòng quê hương Phạm Đình Trọng có đình Khinh Dao thờ Phạm Đình Trọng và 6 vị thần thời Hùng Vương làm thành hoàng là một trong hơn 100 di tích lịch sử được xếp hạng cấp quốc gia của Thành phố. Đình là công trình tín ngưỡng mang đậm phong cách kiến trúc thế kỷ 18 với nhiều giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa và nghệ thuật kiến trúc, được xếp hạng di tích kiến trúc – nghệ thuật cấp quốc gia năm 2005. Tương truyền, khi chúa Trịnh dỡ cung thất cũ xây cung mới cho thiếp yêu chính Phạm Đình Trọng đã xin được mang các mảng kiến trúc, vật liệu bị tháo dỡ về quê hương Khinh Dao dựng lên ngôi đình làng.
Cùng với thời gian di tích này ngày càng xuốn cấp. Năm 2007, với tấm lòng tri ân tiền nhân, ngành Văn hóa-Thể thao-Du lịch Hải Phòng và nhân dân Khinh Dao được Nhà nước hỗ trợ hơn 11 tỷ đồng đã tiến hành trùng tu, tôn tạo khu di tích thờ phụng thành hoàng Phạm Đình Trọng và 6 vị thần thời Hùng Vương.
Giờ đây, đình Khinh Dao với phong cảnh đẹp, nghệ thuật điêu khắc, kiến trúc giá trị trở thành một trong những địa điểm du lịch hấp dẫn khách tham quan.
Phạm Văn Thi