Lê Khắc Cẩn (có sách viết là Lê Khắc Cần) sinh năm Quý Tỵ (1833) tại làng Hạnh Thị, tổng Đại Phương Lang, huyện An Lão, phủ Kiến Thụy, tỉnh Hải Dương (nay là thôn Đông Hạnh, xã An Thọ, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng) trong một gia tộc lớn. Năm mất của ông được tác giả sách Quốc triều khoa bảng lục là Cao Xuân Dục – một đại thần triều Nguyễn ghi là năm 1874. Theo đó cụ Trần Văn Giáp trong Lược truyện các tác gia Việt Nam (in năm 1962) và sách Các nhà khoa bảng Việt Nam do PGS. TS Ngô Đức Thọ chủ biên in năm 2006 đều ghi năm mất của Lê Khắc Cần là năm Giáp Tuất (1874).
Đền thờ Tiến sĩ Lê Khắc Cẩn
Các tài liệu địa phương quê hương Lê Khắc Cần thì cho năm ông mất là 1869 (36 tuổi) nhưng theo tôi ông không thể mất sớm như thế vì dựa vào các sáng tác văn học của Lê Khắc Cẩn còn lưu ở Viện Hán Nôm thì thấy ít nhất ông phải thọ tới 60 tuổi. Bằng chứng như sau:
Năm 1882, sau khi Tổng đốc thành Hà Nội là Hoàng Diệu tự sát để bảo toàn khí tiết trước quân xâm lược Pháp, Lê Khắc Cẩn có bài thơ “Chế đài Hoàng tướng công mộ tiền khốc” (Khóc trước mộ Tổng đốc Hoàng tướng công) – (bài dịch số 23 trong Hải Hạnh thi tập của ông). Nghĩa là Lê Khắc Cần còn sống sau cả năm 1874 mà Quốc triều khoa bảng lục ghi
Ngoài ra, ông Ngô Đăng Lợi, Chủ tịch Hội khoa học lịch sử Hải Phòng căn cứ vào chính các bài Khai bút và Hậu bạt trong Hải Hạnh thi tập của Lê Khắc Cần còn lưu lại được tại Viện Hán Nôm, tin rằng năm mất của Lê Khắc Cẩn là 1889. Trong cuốn “Thơ văn Lê Khắc Cẩn” của Nxb Hải Phòng ấn hành năm 2003, ông Ngô Đăng Lợi và Lê Trọng Yêm (hậu duệ đời thứ 4 của dòng họ Lê ở Hạnh Thị), đồng tác giả cuốn sách đã khẳng định như sau: “Nay đối chiếu các tác phẩm do chính Lê Khắc Cẩn viết, ghi rõ hoạt động từng năm và năm nào cũng có bài thơ khai bút để lại. Chúng tôi tin rằng Lê Khắc Cẩn sinh năm 1833 và mất năm 1889 (?)” (Lời mở đầu sách).
Tôi đã xem lại Hải Hạnh thi tập mà tác giả viện dẫn và thấy như sau:
Tết năm Kỷ sửu 1889 Lê Khắc Cần có bài thơ “Kỷ sửu mạnh xuân tam nhật thí bút” (Khai bút đầu xuân ngày mồng ba năm Kỷ Sửu) – bài dịch số 99 trong Hải Hạnh thi tập:
Nguyên Đán đệ tam triêu
Lập xuân tiền nhất nhật…
(Tạm dịch: Hôm nay là sáng mồng 3 tháng giêng Tết nguyên Đán, cũng là sáng trước tiết lập xuân một ngày)
Và đến ngày 19 tháng 9 năm Kỷ Sửu 1889 Lê Khắc Cần dù mệt nhưng vẫn gượng duyệt sách Du sơn ký cho ông Thái Viên và đề bài hậu bạt với 4 câu thơ dịch như sau:
“Nghìn đồi muôn hốc giấy ghi hình,
Một bức họa đồ thật phân minh.
Thái Viên vẽ được màu non nước.
Có cả nguồn đào cửa động xinh!”
Cuối thu năm 1889 ông ốm nặng ở Hà Nội. Theo Hải Hạnh thi tập thì những bài thơ Lê Khắc Cần viết cho Diên Sơn và Thái Viên ông là những bài kết thúc tác phẩm của ông trong thời gian ông sống tại Hà Thành.
Tuy nhiên trong Hải Hạnh thi tập của Lê Khắc Cần còn có một bài thơ đề là Lục thập tự thuật (tự thuật 60 tuổi) – bài dịch số 36, chép trong chùm thơ làm năm 1882. Nếu người sao chép không lầm lẫn thì hoặc là Lê Khắc Cẩn sinh năm Quý Mùi 1823 (chứ không phải năm 1833 như các tài liệu khẳng định) thì đến năm 1882 ông mới 60 tuổi (1823 – 1882), hoặc là ông sinh năm 1833, mất năm Quý Tỵ (1893) vì đến năm này ông mới 60 tuổi (1833 – 1893) ? Hai câu đầu của bài “tự thuật 60 tuổi” được dịch xuôi như sau:
“Tuổi tác cứ đi từ từ, thế mà đã bắt đầu tròn một “lục giáp” rồi đó,
Đời mình xông pha gió bụi đã trải bao nhiêu năm”…
Theo tôi, người dịch thơ Hải Hạnh thi tập của Lê Khắc Cần ít có khả năng ghi sai năm sáng tác các tác phẩm của ông. Nếu năm 1822 ông 60 tuổi thì năm sinh của Lê Khắc Cẩn phải là 1823. Và nếu lời khẳng định của ông Ngô Đăng Lợi và Lê Trọng Yêm nói trên về năm mất của Lê Khắc Cẩn là có cơ sở thì Song nguyên Hoàng Giáp họ Lê phải thọ tới 66 tuổi (1823-1889). Đây là một vấn đề cùng với các giả thuyết khác cũng cần làm rõ trong tiểu sử Lê Khắc Cẩn. Mong rằng các nhà nghiên cứu góp thêm tiếng nói cùng bàn luận.
Trong lịch sử Việt Nam thời nhà Nguyễn, Lê Khắc Cần là tiến sĩ Hán học duy nhất người Hải Phòng. Cuộc đời, thân thế, sự nghiệp Lê Khắc Cẩn là tấm gương sáng về tinh thần yêu nước, thương dân, thanh liêm, chính trực. Ông còn nổi tiếng với tài văn chương mà sự nghiệp còn để lại với nhiều sáng tác: Văn chiếu biểu, văn sách, thơ, thư từ, câu đối.
Hiện viện Hán – Nôm còn lưu giữ nhiều tác phẩm của tiến sỹ Lê Khắc Cẩn như: Hải Hạnh văn phái, Hải Hạnh thi tập, Hải Hạnh thi tập văn và Miễn Trai văn tập…Ngoài ra ở thư viện Viện Hán-Nôm (Hà Nội) còn có cuốn “Song nguyên Lê phiên hầu thi văn” có lẽ cũng là các sáng tác của ông mà người đời sau sưu tầm biên soạn lại bởi tên sách phù hợp với học vụ, chức tước và họ của ông. Nội dung sách tập hợp các bài thơ, văn, đối trướng, thư từ, các bài biểu, tấu cần được giám định, biên khảo kỹ.
Với tài năng và đạo đức của Lê Khắc Cẩn, cùng những đóng góp cho nền văn học nước ta nửa sau thế kỷ 19, ngày 22-11-2003 tại Văn Miếu Quốc Tử Giám, một hội thảo khoa học về Lê Khắc Cẩn đã được tổ chức. Ông được suy tôn là danh nhân – nhà thơ yêu nước.
Xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, Lê Khắc Cần nổi tiếng thông minh, chăm học. Thân phụ ông là Lê Tường Vân, thân mẫu là Đoàn Thị Tường. Tương truyền cha ông phải làm nghề đóng cối xay để lấy tiền nuôi con ăn học.
Ở quê ông, dòng họ Lê còn nhưng là chi thứ nên không hiểu mấy về ông. Duy ở làng Nãi Sơn huyện Kiến Thụy – quê vợ ông, một số bậc cao niên còn nhớ một số truyền ngôn về Lê Khắc Cẩn.
Trong bài văn bia đặt tại đền thờ Lê Khắc Cẩn tại thôn Đông Hạnh, xã An Thọ, huyện An Lão, Hải Phòng có câu thuật lại tính cách của Lê Khắc Cẩn như sau “Tín nghĩa với bạn bè thì tha thiết chân thành; hiếu kính thờ tiên nhân thì rụt rè cẩn trọng”. Xem những bài thơ mừng, tiễn, từ biệt, họa thơ bạn của ông thì thấy nhận định về ông là đúng, Lê Khắc Cẩn đối với bạn bè thì tình nghĩa, chân thành, đối với người thế hệ trước thì khiêm tốn, trân trọng.
Lại nữa: “Đối với tôn sư, ông thường thư từ qua lại vấn an thầy, lại có khi bàn về thế vận, lòng yêu kính trước sau không đổi. Khi ông ra làm quan, lúc ở Kinh, khi ở phủ, giữ lòng liêm trực, dốc sức mẫn cán. Lúc làm quan ở phủ Xuân Trường ông thi hành nền chính trị huệ dân (ban ơn huệ cho dân), khuyến khích nông nghiệp, tương trợ những người đói nghèo, bệnh tật, khiến dân trong vùng thảy được nhuần ân đức. Cho nên vua yêu, dân mến, đồng liêu kính trọng. Rong ruổi trên đường làm quan, thi hành chính sự, ông dốc hết tâm sức lao khổ, làm rạng tỏ đạo sáng của kẻ bề tôi, là tấm gương lớn của nhà Nho vậy. Lại thêm giao du rộng với giới quan chức và trí thức, luôn giữ tín với bạn bè”.
Lê Khắc Cần là người học rộng, đọc nhiều sách Bách gia chư tử, lại theo học Tiến sĩ, Đốc học Lê Hữu Tạo, người làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Văn chương Lê Khắc Cần “Tứ thơ thì tinh thuần, lời văn thì cao nhã”. Thầy học từng khen ông “Trong giống chim có chim phượng, trong loài cá có cá côn” để ví chí khí học trò mình.
Ông thi hương khoa Ất Mão 1855 đậu giải nguyên trường thi Nam Định. Thi hội khoa nhâm tuất 1862 tại Huế ông đỗ Hoàng giáp. Trong cả hai kỳ thi này Lê Khắc Cần đều đỗ đầu nên còn được gọi là Song nguyên Hoàng Giáp.
Mới ba mươi tuổi đỗ Hội nguyên, đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân đã là người thành đạt. Trong kỳ thi Đình ông đỗ thứ nhì. Bài văn phúc hạnh (sau khi thi Đình) của ông được vua Tự Đức khen giản dị mà cứng, đầy đủ, linh hoạt, không kém gì bài của người đỗ đầu là Đình nguyên Nguyễn Hữu Lập. Ông được vua Tự Đức yêu mến đổi tên là Lê Khắc Nghị, lại giữ làm việc ở những cơ quan gần vua như Viện Tập hiền, Tòa Kinh diên, sau đó mới chuyển đi làm tri phủ Xuân Trường, án sát rồi bố chính tỉnh Nam Định.
Năm Tự Đức thứ 19 (1866) ông được điều về Kinh đô Huế thăng Thị độc học sĩ, Tham biện nội các sự vụ. Các bài thơ văn Tự Đức làm ra phần nhiều đều sai đem đến cho Lê Khắc Nghị đọc thể hiện sự tin tưởng của Vua đối với ông.
Ông nổi tiếng thanh liêm, cương trực. Khi làm án sát Nam Định, thấy thế lực khách trú chèn lấn các nhà buôn Việt Nam, ông đã kiên quyết chống lại. Bọn này căm tức đã âm mưu đầu độc ông nhưng không thành. Tuy làm quan coi về hình án đầu tỉnh mà nhà ông thanh bạch. Có người muốn lợi dụng mẹ ông để biếu xén đút lót nhưng ông kiên quyết chối từ và luôn khuyên mẹ đề phòng bọn xấu.
Lê Khắc Cẩn chứng kiến gần trọn nửa sau thế kỷ XIX, thời kỳ đất nước gặp nhiều gian truân bởi thực dân Pháp xâm lấn. Cảnh triều đình ươn hèn trước sự lấn lướt của thực dân Pháp, sĩ phu yêu nước nổi lên chống giặc tác động mạnh mẽ đến suy nghĩ, thái độ Lê Khắc Cẩn và thử thách nhân cách kẻ sĩ của ông. Trong các sáng tác của ông thường có những bài thơ thể hiện nỗi đau trước cảnh loạn li, lòng thương dân khốn khó trong chiến tranh cướp nước của thực dân xâm lược, sự khinh bỉ lũ “Tây Dương”,“Cẩu quốc”
Ông luôn đứng về phe chủ chiến chống xâm lược. Khi thực dân Pháp chiếm Nam Kỳ, ông viết sớ xin tòng chinh, lời lẽ khẩn thiết thể hiện lòng yêu nước. Vua chấp nhận, ông vào mặt trận vùng Nam Ngãi tham gia chống giặc.
Tuy bận việc quan nhưng Lê Khắc Cẩn vẫn ham sáng tác văn thơ. Viện Hán Nôm hiện còn giữ được một số công trình văn học của ông là: Hải Hạnh văn phái (ký hiệu A.358), Hải Hạnh thi tập (ký hiệu A.466), Hải Hạnh văn tập (ký hiệu VHv.261), Hải Hạnh thi văn tập (ký hiệu VHv. 259) Miễn Trai văn tập. (Hải Hạnh và Miễn Trai là bút hiệu của Lê Khắc Cần)
Con trai của Lê Khắc Cẩn là Lê Mạnh Phổ kế thừa sự học và chí hướng của cha, thi đậu Hương tiến, được bổ làm Huấn đạo Đông Quan, làm dạng danh cho gia tộc.
Lê Khắc Cẩn qua đời không rõ là khi còn làm quan hay đã về hưu, nhưng khoảng những năm tám mươi của thế kỷ XIX ông sống ở vùng hồ Trúc Bạch, Hà Nội. Có truyền ngôn cho rằng ông chết vì bị ngầm đánh thuốc độc.
Mộ Lê Khắc Cẩn hiện táng ở Đồng Bún, Đỗ Xá, xã Nam Xá, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Thể hiện sự tri ân của Thành phố và quê hương đối với ông, tháng 3-2008, UBND TP Hải Phòng đã có quyết định phê duyệt dự án đầu tư xây dựng đền thờ tiến sỹ- nhà thơ Lê Khắc Cẩn ngay tại quê hương ông- thôn Đông Hạnh, xã An Thọ, huyện An Lão, Hải Phòng. Với sự đầu tư của chính quyền thành phố Hải Phòng và sự đóng góp to lớn từ nguồn xã hội hóa, ngày 3 tháng 10 năm 2010 nhà thờ tiến sĩ, nhà thơ yêu nước Nguyễn Khắc Cẩn đã khánh thành. Công trình hoàn thành to, đẹp với tổng kinh phí xây dựng 27,5 tỷ đồng, vượt gấp hơn hai lần dự toán ban đầu và được hoàn thành sớm hơn dự tính 1 năm.
Công trình gồm các hạng mục: đền thờ chính 174 m2, tả hữu giải vũ 173 m2, hai nhà bia 10 m2, tam quan 13,4 m2, hồ sen… trên tổng diện tích 11.514 m2. Đền thờ là công trình mô phỏng kiến trúc thời nhà Nguyễn, đền chính đặt trên bệ cao 1,35 m, khung nhà cột lim theo kết cấu giá chiêng – chồng rường – con bẩy – chồng đấu sen chạm hoa văn. Nền lát gạch bát, hệ mái hai tầng, cửa đi kiểu “thượng song hạ bản”, cửa sổ kiểu chữ “vạn”… đều bằng gỗ lim. Công trình này thể hiện tấm lòng của nhân dân và chính quyền thành phố Hải Phòng đối với người con đã làm vẻ vang cho quê hương và giờ đây đang trở thành một địa điểm du lịch văn hóa của Hải Phòng.
Phạm Văn Thi