Trần Phương
Hải Phòng có mạch nguồn tự nhiên từ một vài làng chài ven sông, nhờ có tầm nhìn xa của Bùi Viện mà cảng Hải Phòng ra đời và nhanh chóng trở thành thương cảng lớn nhất nhì nước ta. Vào những năm cuối thế kỷ XIX, vâng mệnh triều đình nhà Nguyễn, Bùi Viện thực hiện chuyến đi khảo sát vùng ven biển Hải Dương và đề xuất xây dựng một Trung tâm buôn bán nằm ở ngã ba sông Tam Bạc đổ vào sông Cấm. Phan Trần Chúc – tác giả cuốn sách “Bùi Viện với chính phủ Mỹ lịch sử ngoại triều Tự Đức” cho rằng: Cử nhân Bùi Viện là người đầu tiên mở mang cảng Ninh Hải (tức cảng Hải Phòng ngày nay) làm cửa ngõ cho cả xứ Bắc Kỳ thông thương với bên ngoài.
TỔNG CÔNG TRÌNH SƯ ĐÔ THỊ CẢNG BIỂN HẢI PHÒNG
Bùi Viện sinh ra ở làng Trình Phố, nay thuộc xã An Ninh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Sự nghiệp của nhà canh tân Bùi Viện gắn với biển khơi với những hoài bão và hành động phi thường. Vào năm Tự Đức thứ 17 (1864), Bùi Viện cùng em trai là Bùi Chủng thi đậu tú tài và lận đận mãi ở nơi trường ốc đến năm Tự Đức thứ 21 (1868) ông mới đỗ cử nhân, em ông là Bùi Chủng đã đỗ trước một năm. Liền hai khóa thi hội 1868-1869 hai anh em ông đều không đậu. Bùi Chủng đoạn tuyệt khoa danh về quê phụng dưỡng mẹ già. Mãi đến khi Bùi Viện qua đời, Bùi Chủng mới ra làm quan tri phủ Thái Ninh. Bùi Viện ở Huế tiếp tục luyện rèn kinh sử. Chí hướng, sở đắc của Bùi Viện đã lọt vào “mắt xanh” của quan đại thần Lê Tuấn đang giữ chức Thượng thư bộ Hình trong triều đình Huế. Khi Lê Tuấn được cử ra Bắc Kỳ sung chức Khâm sai phối hợp với Hoàng Tá Viêm đánh giặc thì Lê Tuấn cho Bùi Viện theo như một gia nhân chứ chưa có tước vị chính thống gì. Sau mấy tháng giặc đã tam yên, cuối năm 1871 Lê Tuấn được triệu về Huế, Bùi Viện theo về cùng. Liền ngay đó, Bùi Viện được quan Doanh Điền sứ Doãn Khuê mời ra Bắc giúp việc dưới trướng ông. Công việc của Bùi Viện là giúp Doãn Khuê thiết lập doanh điền, chiêu mộ dân lưu tán về khai hoang lấn biển, trong đó có việc nạo vét mở rộng bến Ninh Hải. Doãn Khuê đã giao phó việc cho Bùi Viện tổ chức một cuộc thị sát bến Ninh Hải. Bùi Viện bèn cho lập hai đồn binh, lập nha Hải Phòng, trạm thuế quan ở ngã ba sông Tam Bạc đổ vào sông Cấm. Những công việc này của Bùi Viện đã đặt nền móng cho sự ra đời và phát triển của đô thị và cảng biển Hải Phòng sau này.
Lịch sử đánh giá Bùi Viện như một “tổng công trình sư” của cảng biển Hải Phòng hiện nay. Sau khi đã lên kế hoạch, thiết kế bản vẽ, chọn vị trí… đích thân Bùi Viện đã chỉ huy các công đoạn xây dựng lẫn thi công công trình lớn lao nhất mà triều đình nhà Nguyễn đã giao phó. Cũng theo nhà sử học Lê Văn Lan, Chiêu thương Cục của Nhà nước phong kiến nhà Nguyễn được thành lập, làm nhiệm vụ chuyên trách việc buôn bán với nước ngoài là theo đề nghị của Bùi Viện. Ông cho mở một chi điểm ở Ninh Hải, chi điểm này về sau trở thành phố Chiêu Thương nổi tiếng, được các nhà buôn Tây phương khen ngợi là có tầm nhìn. Những năm tiếp theo, Chiêu Thương quán ở Ninh Hải đã thu hút một số đông các nhà buôn người Việt và người Hoa đến sinh cơ lập nghiệp, mở cửa hàng buôn bán. Một trong những mặt hàng buôn bán chủ yếu lúc này là thóc gạo, lâm – thổ – thủy – hải sản. Từ đó, bộ mặt phố xá ở khu vực ngã ba sông Tam Bạc và sông Cấm dần thay đổi. Đó là những cơ sở khởi thuỷ cho việc hình thành nên đô thị cảng biển Hải Phòng sầm uất.
GẶP TỔNG THỐNG HOA KỲ BÀN CHUYỆN LIÊN MINH, HỢP TÁC
Tình hình Việt Nam vào đầu những năm 80 của thế kỷ XIX đang cực kỳ bế tắc. Thực dân Pháp ngày càng lấn tới ép triều đình Huế phải lần lượt ký các hàng ước. Triều đình ngày một phân hóa, không chỉ còn là sự phân hóa giữa phái chủ hòa với phái chủ chiến mà còn lai sự phân hóa giữa những người muốn canh tân đất nước, trong đó có một bộ phận muốn dựa vào một nước ngoài không phải là Trung Quốc để liên minh nhằm làm giảm bớt áp lực của người Pháp. Biết Bùi Viện là người có chí lớn, giàu nghị lực, có khả năng vượt trùng dương, Thượng thư bộ Hộ Lê Tuấn đã tiến cử ông với vua Tự Đức để Bùi Viện đi tìm đối tác ngoại giao. Tự Đức chấp thuận và lạ lùng thay sứ thần Bùi Viện lên đường vẫn chắng có tước vị chính thống gì.
Từ cửa Thuận An, Bùi Viện dong buồm vượt biển lên phía Bắc. Sau mấy tháng một mình vượt biển khơi, Bùi Viện đặt chân lên Hương Cảng (Trung Quốc) và lân la kết giao được với một lãnh sự Hoa Kỳ tại Hương Cảng. Ông ta có mẹ là người Trung Quốc lại có vốn Hán học kha khá nên thuận lợi cho việc giao thiệp với Bùi Viện. Qua người bạn mới này, Bùi Viện mới biết về nước Mỹ và ông bày tỏ nguyện vọng muốn sang Mỹ để mưu cầu việc đánh Pháp. Vị lãnh sự này đã viết thư giới thiệu Bùi Viện đến gặp người bạn đang làm việc trong Phủ tổng thống Hoa Kỳ. Bùi Viện hăm hở xuống tàu qua Nhật Bản rồi từ đó đi Cựu Kim Sơn và đáp tàu đến Oa – sinh – tơn. Sau gần một năm rưỡi nơi đất khách quê người, không rõ Bùi Viện đã sống và hoạt động như thế nào để rồi đã tiếp kiến Tổng thống Grăng (Grant). Nghe Bùi Viện trinh bày về chủ trương cầu viện, tổng thống Grăng muốn nhân cơ hội này thế chân Pháp để cắm chân trên trên vùng biển châu Á, vốn nằm trong ý đồ chiến lược của Hoa Kỳ từ lâu mà chưa thực hiện được. Theo sách Đại Nam thực lục chính biên, kỷ đệ tam cho biết vào năm 1831 phái đoàn Roberto đã trình thư của Quốc trưởng nước Nhã Di Lý – tức tổng thống Hoa Kỳ xin thông thương nhưng bị từ chối. Tưởng chừng như cuộc ngoại giao phi thường này của Bùi Viện đã thành nhưng khi hỏi ra thì ông không mang theo quốc thư nên không có cơ sở để ký kết. Bùi Viện không nản chí lại tìm đường xuống tàu trở về xin quốc thư rồi trở lại Hoa Kỳ lần thứ hai vào năm 1875 với hy vọng mọi việc sẽ thành công như ý nguyện của mình. Nào ngờ, sau khi tìm hiểu kỹ, người Mỹ thấy người Pháp đã củng cố được vị thế khá vững chắc ở Đông Nam Á nên Mỹ đã điều chỉnh chính sách ngoại giao, từ chối việc liên minh với Việt Nam kháng Pháp. Lại một lần nữa, Bùi Viện chán nản, lênh đênh vượt đại dương về nước.
Thuyền vừa cấp bến Hải Vân thì Bùi Viện nghe tin mẹ mất, ông tâu trình xin về quê chịu tang. Vua Tự Đức đã châu phê vào tờ đơn của ông: “Ta với người tuy chưa có ân nghĩa gì sâu mà đã có việc nước như việc nhà không quản xa xôi lo lắng, quỷ thần tất cũng biết cho vậy”. Chuyến công du của Bùi Viện không thành nhưng ý chí lớn lao và năng lực phi thường của ông đã được Tự Đức ghi nhận. Mặc cho trong triều đình có kẻ gièm pha nhưng sau ba tháng chịu tang mẹ, Bùi Viện đã được Tự Đức triệu vào Kinh bổ nhiệm chức Tham biện công chính. Chức quan tuy không lớn nhưng cũng là cơ hội để Bùi Viện thực hiện hoài bão chinh phục và khai thác biển khơi phụ vụ quốc kế dân sinh. Ông tâu trình với triều đình nhiều kế sách tiễu trừ giặc biển, thành lập Nha tuần hải, Tuần dương quân bảo vệ miền duyên hải và tàu buôn trên biển. Đại bản doanh của Tuần dương quân đặt tại Nam Định, còn các đồn quan phòng kiểm tra tàu thuyền qua lại được đặt ở nhiều điểm từ Ninh Hải (Hải Phòng) đến Quảng Nam – Đà Nẵng. Khi tổ chức Tuần dương quân, Bùi Viện đã đề xuất với thượng cấp cho ông sử dụng những tên cướp biển. Với mức lương cao lại hưởng nhiều bổng lộc nên những tên cướp biển được xung vào Tuần dương quân rất mực trung thành. Trong suốt thời gian Bùi Viện chỉ huy đội quân này, vùng biển gần như không có nạn cướp bóc. Tiền kho tải vào kinh thành Huế cũng không mảy may sơ sảy. Với cương vị là Chánh quản đốc Nha Tuần hải, Bùi Viện đã tự soạn thảo quy chế hoạt động, đặt chế độ thưởng phạt nghiêm minh. Công việc chinh phục biển khơi đang tiến triển thuận lợi thì Bùi Viện ốm nặng rồi đột ngột qua đời tại Huế vào ngày mồng 2 tháng 11 năm Mậu Dần (1878) khi tuổi đời chưa kịp bước sang tuổi 40.
Bùi Viện là người sớm hình thành những hiểu biết về biển và có ý chí vươn ra chiếm lĩnh và làm chủ biển khơi: Mở cảng Hải Phòng, sang Hương Cảng, vượt đại dương sang Mỹ, canh tân kinh tế, củng cố quốc phòng.. là cả một sự nghiệp đồ sộ, lớn lao. Tới đây, cùng với việc xây dựng cầu Hoàng Văn Thụ kết nối đô thị cũ Hải Phòng với đô thị mới Bắc sông Cấm, Hải Phòng sẽ mở con đường hiện đại ven sông Cấm. Con đường này xứng đáng được Bùi Viện – người công đầu khai mở cảng thị Hải Phòng.
Đức Viêm