Một thầy giáo ham mê sưu tầm sách- Thơ Văn dự thi mã số 32 với chủ đề “Người Hải Phòng”

Thơ Văn dự thi mã số 32 của tác giả: Vũ Hoàng Lâm- Hải Phòng

MỘT THẦY GIÁO HAM MÊ SƯU TẦM SÁCH

Năm 1975 đánh dấu một sự kiện lịch sử, đất nước thống nhất.

Năm học 1976-1977, một sự kiện đáng tự hào của ngành giáo dục Hải Phòng: Phong trào Bổ túc Văn hóa phát triển đến một đỉnh cao. Sau những năm tháng chống chiên tranh phá hoại, sau những năm tháng ở chiến trường trở về, người nào cũng thấy cần phải học để đáp ứng yêu cầu ngày một cao của cuộc sống.  Nhiều đồng chí lãnh đạo thành phố, dù có trình độ học vấn cao, nhưng chưa được “chuẩn hóa” như đồng chí Đoàn Duy Thành cũng đến học Bổ túc Văn hóa. Ông đỗ thủ khoa môn Tiếng Anh.

Sở Thương nghiệp mở riêng một trường Bổ túc Văn hóa cho toàn ngành. Nhưng rất nhiều cán bộ ngành khác cũng đến xin học. Bởi một lý do rất đơn giản, các cán bộ chuyên môn của Sở Giáo dục đều được Phòng Bổ túc Văn hóa mời tham gia giảng dậy. Các tên tuổi Giao, Hậu, Độ, Tập bốn trụ cột của Phòng BTVH, các chuyên viên  Phòng Phổ thông Thái, Mộc, Thông, Hiền, Lâm, và nhiều giáo viên “tên tuổi” ở các trường đều có mặt. Ban ngày gặp nhau ở Sở, buổi tối gặp nhau ở trường Bổ túc, anh em trở nên thân thiết.Chúng tôi có thời gian để tâm sự với nhau nhiều hơn.

Trong số những người tham gia “chuyện trò ngoài lề” ấy, tôi đặc biệt chú ý anh Trần Hữu Độ. Ngoài việc anh biết rất nhiều chuyện ngoài lề, chuyện nào của anh cũng có chứng cứ chính xác. Anh nói về cách tính tuổi CỌC GỖ trên sông Bạch Đằng dựa vào đồng vị phóng xạ các bon 14, anh nói về “Quốc tế ngữ-Esperanto” một lĩnh vực rất xa lạ với bộ môn Hóa học của anh thành thạo như anh nói về một phường trình hóa học vậy.

Một hôm, giữa buổi học, mất điện! Ban Giám hiệu báo cho biết Sở điện sẽ khắc phục sự cố sau 15 phút. Giáo viên về phòng chờ ngồi trong ngọn đền măng xông sáng trưng. Có tiếng cất lên: Trần Hữu Độ kể cho anh chị em nghe một chuyện đi.

Trần Hữu Độ lên tiếng ngay:

Tôi xin kể các bạn nghe về tinh thần học hỏi của Giáo sư Trần Đại Nghĩa. Cha mẹ đặt tên ông là Phạm Quang Lễ. Bác Hồ đặt tên cho ông là Trần Đại Nghĩa. Và ông đã sống trọn cuộc đời  mình cho xứng với cái tên đó.  Đáng khâm phục chưa !  Ông sinh năm 1913 quê ở Mỹ Tho.   Sau khi tốt nghiệp Trung học Đệ Nhất cấp anh lên Sài-gòn học trường Pétrus Ký. Đậu bằng Tú Tài xuất sắc , ông  được Hội Ái Hữu trường Chasseloup Laubat cấp học bổng sang du học bên Pháp. Ông mong muốn được học  về chế tạo vũ khí, nhưng không  một trường nào  ở nước Pháp  nhận một học sinh thuộc địa vào học  cách chế tạo vũ khí.

Suốt từ 1930 đến 1941, ông  học nhiều ngành, đã nhận các bằng tốt nghiệp Kỹ sư Cầu đường, kỹ sư Điện, kỹ sư Hàng không, kỹ sư Chế tạo Máy. Tại sao ông dành 11 năm để học từ ngành này sang ngành khác? Ông vào thư viện để, tra cứu thư mục, lập thư mục những đầu sách có liên quan tới vũ khí.  Sau này ông cho biết cứ khoảng hai  vạn cuốn sách mới có 1 cuốn  liên quan tới vũ khí. Trong số hơn 1 triệu  tên sách ở thư viện, ông chỉ nhặt được 50 cuốn. Trong vòng 11 năm,  Ông  đã có trong tay hơn ba nghìn trang tài liệu nói về vũ khí. Ông tạm dừng việc thu lượm sách về vũ khi và vào làm ở Hãng Chế tạo Máy bay Sud  Avion với mức lương  tháng 22 lượng vàng. Tháng 9 năm 1946 nghe lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người sang Pháp, Trần Đại Nghĩa về nước phục vụ cuộc Kháng Chiến chống Pháp với các vũ khí nổi tiếng khiến quân Pháp sợ hãi như Bazoka, SKZ, và sau này ông có công chế tạo tầu phá bom  từ trường,  nối dài đường bay cho tên lửa SAM 2 trong chiến tranh chống Mỹ.

Vừa vặn điện bật sáng, tiếng reo vui các lớp vang lên. Giáo viên lên lớp với một câu nói với theo: Hẹn một buổi tối nào mất điện, anh bạn “mọt sách” nhé.

Thời gian tiếp theo, tôi sang dạy học ở Algérie, nước còn dạy học bằng tiếng Pháp, khi trở về công tác thì được biết nhiều người học tiếng Bồ Đào Nha để dạy ở một số nước Châu Phi như anh Bùi Quang Thi, anh Trần Hữu Độ sang dạy ở Mô-dăm-bich.

Trở về Sở Giáo dục, tôi và anh Độ cùng được bố trí vè Trung tâm Phương Pháp Giáo dục dưới sự chỉ đạo cua Giám đốc Nguyễn Trung Chính. Nhiệm vụ của Trung tâm là thực hiện việc cải tiến phương pháp giảng dạy của giáo viên và phương pháp học của học sinh để sau đó viết các tài liệu hướng dẫn cho giáo viên toàn thành phố trao đổi.

Những lúc giải lao, ngồi uống nước  chúng tôi thích thú về những chuyện trên giời dưới biển của “nhà sử học” Trịnh Ngọc Viện và của “mọt sách” Trần Hữu Độ.

Thời kỳ này, thành phố Hải Phòng có một số chuyên gia nước ngoài đến làm việc. Một công việc mới đến với Trung tâm Phương pháp giáo dục; dạy con của các chuyên gia này học. Một nhiệm vụ “bất khả kháng”. Không có lý do gì để các em bị “thất học”. Em Sô-phi-a lớp Ba  và em Rơ-nô lớp Một người Pháp. Tôi dạy Toán và anh Độ dạy tiếng Pháp cho hai em. Sau đó chúng tôi nhận em “Ây-sơ” người Mỹ bốn tuổi học lớp Mẫu giáo. Anh Hảo dạy tiếng Anh, còn tôi dạy toán. Dạy cho Sô-phi-a và Rơ-nô không khó khăn vì một Trung tâm bên Pháp gửi tài liệu cho các em học. Tôi dùng tài liệu đó như sách giáo khoa dạy các em. Nhưng dạy cho Ây-sơ thì tôi phải lo biên soạn bài dạy hàng ngày. Ngay hôm sau, giữa lúc đang lo lắng, anh Độ mang đến cho tôi hai quyển sách Toán dạy cho trẻ lớp Mẫu giáo bằng tiếng Anh.

Tôi thật sự ngạc nhiên:

-Làm sao anh lại có  hai quyển sách kỳ diệu này?

Anh vui vẻ kể rằng năm 1973 anh được cử vào Miền Nam công tác tại Bộ Giáo dục và Thanh niên Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam. Có những giáo viên trong vùng tạm chiếm ra chiến khu theo cách mạng. Thấy tôi nói chuyện cả tiếng Anh, cả tiếng Pháp thành thạo, họ càng thêm tin tưởng chính quyền Cách mạng. Ngày 30 tháng Tư, chúng tôi về Sài Gòn tiếp quản Bộ Giáo dục. Các phòng làm việc còn ngổn ngang đồ đạc. Các đồng chí lãnh đạo động viên anh chị em thu dọn thứ gì có thể dùng thì giữ lại, cài gì không dùng gom vào một góc nhà. Ai chọn thứ gì tôi không dể ý, còn tôi tôi thu gom sách. Tôi giữ được bộ Từ điển Bách khoa toàn thư của Mỹ gồm 22 quyển và những quyển sách về dạy học. Đén cuối năm 1977 trở về Hải Phòng tôi mang theo bộ Từ điển và hơn 200 quyển sách trong đó có hai quyển sách  dạy Toán cho trẻ lớp Mẫu Giáo.

Anh cười: Không ngờ hai quyển này lại có ích cho chúng ta.

Hôm sau tôi đến nhà anh để chiêm ngưỡng tủ sách, cũng để xem bộ Từ điển Bách Khoa của Mỹ. Tôi đọc những trang viết về Hồ Chí Minh, về Võ Nguyên Giáp, về Điện Biên Phủ, về Việt Nam. Có cả chữ nước mắm, con gái, chữ bé con của tiếng Việt.

Con người đi trong cuộc đời, mỗi người có một sự lựa chọn cho mình, có  cái thì còn mãi có cái thì mất đi. Trần Hữu Độ đã chọn cho mình những cái còn mãi với thời gian. Tôi thêm quý anh từ ngày ấy.

Trần Hữu Độ sinh năm 1936 trong ngày gần Tết Nguyên đán Ất Hợi tại thị trấn Phùng, huyện Đan Phượng tỉnh Hà Đông- nay thuộc thành phố Hà Nội, trưởng thành trong một dòng dõi  đa trường phái. Ông ngoại là nhà nho từng là người chấm thi Tú tài cho các sĩ tử thành Nam đầu thế kỷ 20. Ông nội là Cai Đội lính  khố đỏ chiến đấu tại Pháp trong thế chiến thứ nhát 1914-1918. Bố ông là giáo viên chính  ngạch, từ năm 1930 được  bổ về Đan Phượng. Anh rê ong là Tỉnh ủy viên Tỉnh ủy Hà Đông trong Kháng chiến chống Pháp thời kỳ đồng chí Đỗ Mười là Bí thư Tỉnh Ủy Hà Đông. Nhưng trong mọi hoàn cảnh Trần Hữu Độ đều được gia đình dạy mục đích của việc học để làm gì. Không phải học để làm quan, không phải để lo  kiếm lợi cho mình hay cho gia đình, mà lo làm việc gì ích nước lợi nhà. Bắt đầu cuộc đời công tác, ở đâu thầy giáo Trần Hữu Độ cũng sống với tinh thần học, làm việc vì lợi ích của đất nước. Ông đã được kết nạp vào Đảng năm 1973, Cũng năm đó, ông được cử   vào chiến trường miền Nam, là Chuyên viên Bộ Giáo dục và thanh niên Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, và sau ngày Giải phóng 30 tháng 4 năm 1975, ông là chuyên viên Bộ Giáo dục –Văn phòng II  thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1977 ông trở về Hải Phòng được cử   giữ chức Trưởng Phòng  Bổ Túc Văn Hóa Sở Giáo dục   và  năm 1986 đến 1990, ông là chuyên gia giáo dục tại Mô-dăm-bich.

Ở môi trường nào thầy giáo Trần Hữu Độ cũng biết lựa chon phần có ích cho công việc.

Thầy Trần Hữu Độ kể lại năm 1944 (8 tuổi) khi đang học lớp Sơ đẳng ở trường tiểu học Đan Phượng (lớp Ba bây giờ), thì vị thanh tra học chính Đông Dương người Pháp lai, mặc áo dài đen  quần trắng đi giầy Tây, đội mũ phớt, nói tiếng Việt rất rõ vào lớp. Ông yêu cầu từng học sinh phat âm “quả na, cây lê”, vì nhiều học sinh đọc lẫn lộn giữa l và n. Từ đó “quả na cây lê” đi trong trăn trở suốt cuộc đời ông. Cho đến năm 2001, khi tham gia Hội Khoa học Tâm lý Giáo dục Thành phố, ông đề xuất một hướng đi “làm thế nào đẻ sửa tật nói ngọng l và n cho học sinh và cho nhân dân ?” Đề xuất đó đang được triển khai tích cực.

Ông học tiếng Bồ Đào Nha trong 3 tháng. Trong thời kỳ làm chuyên gia, ông  học tập để hoàn thiện ngôn ngữ  “chỉ dùng một lần trong đời” thành thạo đến mức  trong các năm từ 2014 đến 2017 khi đội bóng đá Hải Phòng mời ông Alberto người Braxin, nói tiếng Bồ Đào Nha làm Huấn luyện viên trưởng, lãnh đạo đội bóng đã mời thầy Trần Hữu Độ làm phiên dịch. Ông  phải theo đội bóng đi thi đấu khắp sân cỏ trong nước cho đến ngày ông Alberto kết thúc hợp đồng. Chính thức học tiếng Bồ Đào Nha có 3 tháng mà làm phiên dịch cho một chuyên ngành bóng đá thì trình độ tiếng Bồ Đào Nha phải đạt mức chuẩn đáng kính phục.

Hiện nay,ở tuổi 83, Thầy giáo Trần Hữu Độ, nguyên là Ủy viên BCH Chi hội LLVK Pháp 02 khóa; ông cũng nguyên là giáo viên dạy trường học sinh miền Nam, hiện ông làm Bí thư Chi bộ Đảng, Phó Hiệu trưởng trường Trung  cấp Chuyên nghiệp Hải Phòng. Đó là công việc có tên, ngoài ra ông thường dạy cho những người chuẩn bị định cư nước nói tiếng Anh, nước nói tiếng Pháp một chương trình cấp tốc 3 tháng để khi sang định cư họ có thể giao tiếp được ngay. Một số khách sạn và Công ty  Dịch thuật khi cần phiên dịch tiếng Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, người ta thường mời ông. Căn nhà ông ở tuy trong ngõ 89 phố An Đà, Đằng Giang, nhưng lúc nào cũng có khách, căn nhà lúc nào cũng âm vang tiếng cười đầy tình thân yêu.

VHL

Hộp thư Thơ Văn với chủ đề “Người Hải Phòng” dự thi:

Thời gian qua, BTC đã nhận được Thơ Văn dự thi của các tác giả:

Hải Phòng: Phan Dũng, Lại Xuân Hậu, Nguyễn Ban, Vũ Hoàng Lâm, Bùi Sỹ Căn, Nguyễn Hùng, Vũ Ngọc Anh, Đặng Quang Đạo, Nga Lê, Trần Duy Hạnh, Đào Nguyên Lịch, Bùi Đức Nội, Nguyễn Thị Hiền, Thúy Vinh, Quỳnh Lê, Nguyễn Thị Nho, Lê Việt Hùng, Ngô Thị Mai Hà, Vương Giao Tuyến, Hoàng Ngãi; Hà Nội: Bùi Đức Thiêm, Nguyễn Lan Hương, Nguyễn Thị Kim, Lê Nguyên Khôi, Thái Hưng, Đinh Thành Trung; Hưng Yên: Nguyễn Thành Tuấn, Nguyễn Quý Nghi; Quảng Ninh: Dương Phượng Toại, Nguyễn Thái Phú, Đỗ Đồng Lệ; TP Hồ Chí Minh: Vương Miện, Nguyễn Vĩnh Bảo, Vũ Lam Hiền; Thụy Sỹ: Hoàng Yến; Nam Định: Phạm Mai Hương; Hải Dương: Huy Nguyên; Chi hội Mỹ: Phạm Thu Hương, Trần Thanh Toàn; Cộng hòa Pháp: Nguyễn Nga; Nghệ An: Phan Hữu Cường; Liên bang Nga: Nguyễn Hắc Long; Khánh Hòa: Ngọc Hoa; Bà Rịa Vũng Tàu: Trần Thắng; Bungary: Hoàng Minh Thuận; Bình Thuận: Dương Đức; Vương quốc Anh: Đào Thị Kỷ, Nguyễn Thị Mát; Newzealand: Đào Yên; Vĩnh Phúc: Lê Gia Hoài; Đồng Nai: Nguyễn Quốc Toàn, Nguyễn Tâm Thanh; Yên Bái: Đào Thu Hương

Mời các bạn tiếp tục gửi Thơ Văn dự thi. Thơ Văn dự thi xin gửi về email: hoivietkieuhp@gmail.com. Trân trọng cám ơn!

BTC

Bài viết khác